Võ Văn Kiệt, một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Việt Nam, đã để lại dấu ấn đậm nét trong giai đoạn đổi mới và phát triển đất nước. Từ những năm tháng hoạt động cách mạng đến khi đảm nhận cương vị Thủ tướng, ông luôn thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới và quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để đưa Việt Nam hội nhập quốc tế. Hãy cùng tinycollege.edu.vn khám phá sâu hơn về tiểu sử và sự nghiệp của nhà lãnh đạo tài ba này.
Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hòa, sinh ngày 23 tháng 11 năm 1922 tại ấp Bình Phụng, xã Trung Lương, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long). Ông là con út trong gia đình có năm anh trai và hai chị gái. Do hoàn cảnh khó khăn, cha mẹ ông phải thuê đất và trâu để cày cấy, sống cuộc sống thiếu thốn.
Mẹ của Võ Văn Kiệt nhận nuôi thêm một người con, vì vậy ông được gọi với tên thân mật là Chín Hòa. Thấy gia đình chị dâu vất vả, người chú họ của ông, Phan Văn Chi (Hai Chi), đã xin nhận Chín Hòa về nuôi và chăm sóc. Do không có điều kiện học tập đầy đủ, ông chỉ được học tại trường làng khi lên tám tuổi. Dù chỉ được học hai năm, thầy giáo của ông nhận xét rằng ông rất thông minh và lễ độ.
Trong cuộc sống và sự nghiệp cách mạng, mẹ của ông, bà Võ Thị Quế, luôn là nguồn động lực lớn lao. Kính trọng sự hy sinh của mẹ, ông đã lấy họ Võ của bà để đặt tên hoạt động cách mạng, từ đó cái tên Võ Văn Kiệt đã trở thành tên chính thức gắn liền với sự nghiệp của ông.
Đồng chí Võ Văn Kiệt tham gia cách mạng từ năm 16 tuổi, khi gia nhập phong trào Thanh niên phản đế vào năm 1938 và chính thức trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương vào tháng 11 năm 1939. Trong Khởi nghĩa Nam Kỳ, ông giữ vai trò Huyện ủy viên và Bí thư chi bộ tại huyện Vũng Liêm, thể hiện tinh thần kiên trung và ý chí cách mạng từ rất sớm.
Sau Cách mạng Tháng Tám và khi quân đội Pháp tái chiếm Nam Bộ, Võ Văn Kiệt đã trở thành Ủy viên chính trị dân quân cách mạng liên tỉnh Tây Nam Bộ. Trong giai đoạn từ 1946 đến 1954, ông giữ nhiều vị trí quan trọng như Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Rạch Giá, và sau đó là Phó Bí thư, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu.
Với tư cách là một thành viên tích cực của phong trào độc lập Việt Minh, Võ Văn Kiệt đã tham gia chiến đấu trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954). Sau Hiệp định Genève, thay vì ra Bắc, ông quyết định ở lại miền Nam để tiếp tục hoạt động cách mạng từ các căn cứ bí mật ở miền Đông Nam Bộ. Thời gian này, ông phải chịu mất mát lớn khi vợ và hai con của mình đã hy sinh trong một cuộc tấn công bằng tên lửa của Mỹ vào năm 1966.
Sau khi Hiệp định Genève kết thúc, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến 1970, ông đảm nhận vai trò Bí thư Khu ủy T.4, phụ trách khu vực Sài Gòn – Gia Định, đồng thời được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội III (1960) và Ủy viên Trung ương Cục miền Nam vào năm 1961.
Trong giai đoạn từ 1973 đến 1975, Võ Văn Kiệt giữ chức Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam và chỉ huy các lực lượng cộng sản tại Sài Gòn và vùng lân cận. Khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lãnh đạo việc tiếp quản thành phố, và năm 1976 được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Phó Bí thư Thành ủy.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố. Sau năm 1976, ông tiếp tục giữ vai trò Phó Bí thư Thành ủy và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đóng góp vào sự phát triển của thành phố.
Từ tháng 4 năm 1982, ông được Quốc hội phê chuẩn làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng thời giữ chức Phó Chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Sau khi Phạm Hùng qua đời vào năm 1988, Võ Văn Kiệt đảm nhận vai trò Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, tuy nhiên trong cuộc bầu chọn chính thức, Đỗ Mười được bầu làm Chủ tịch và ông tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch.
Từ năm 1987 đến 1991, Võ Văn Kiệt còn kiêm nhiệm vai trò Phó Thủ tướng và Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch, với những sáng kiến đột phá giúp khắc phục nhiều vấn đề kinh tế, xã hội.
Với vai trò Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm sau 1975, ông đã thể hiện tư duy táo bạo khi chọn phương án “phá rào” để thu mua gạo từ miền Tây cứu đói cho dân, giúp thành phố vượt qua giai đoạn khó khăn.
Võ Văn Kiệt là một thành viên tích cực của phong trào Việt Minh, tham gia trực tiếp vào Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954) tại miền Nam Việt Nam, chống lại thực dân Pháp. Sau Hiệp định Genève năm 1954, thay vì di chuyển ra miền Bắc, ông chọn ở lại miền Nam để tiếp tục hoạt động cách mạng từ các căn cứ bí mật tại miền Đông Nam Bộ.
Sau Hiệp định Genève, Võ Văn Kiệt được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Bộ và Phó Bí thư liên Tỉnh ủy Hậu Giang. Từ năm 1959 đến 1970, ông giữ trọng trách Bí thư Khu ủy T.4, phụ trách khu vực Sài Gòn – Gia Định, đồng thời được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội III (1960).
Giai đoạn 1973–1975, ông giữ chức Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam, góp phần chỉ huy và tổ chức các hoạt động cách mạng quan trọng. Sau khi lực lượng Cách mạng kiểm soát Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Võ Văn Kiệt đảm nhận việc tiếp quản thành phố, và vào năm 1976, ông được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Phó Bí thư Thành ủy.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Võ Văn Kiệt giữ chức Bí thư Đảng ủy đặc biệt trong Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn, đóng vai trò quan trọng trong việc tái thiết thành phố sau chiến tranh. Từ năm 1976, ông tiếp tục làm Phó Bí thư Thành ủy và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời, ông cũng được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa VI. Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV (1976), ông trở thành Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị và tiếp tục giữ vai trò Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho đến năm 1982.
Từ tháng 4 năm 1982, Võ Văn Kiệt được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, đồng thời giữ các chức vụ quan trọng như Phó Chủ tịch và Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Khi Phạm Hùng qua đời vào năm 1988, Võ Văn Kiệt được giao nhiệm vụ Quyền Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Giai đoạn 1987–1991, ông còn kiêm nhiệm vai trò Phó Thủ tướng và Trưởng Ban Chỉ đạo Hướng dẫn sinh đẻ có kế hoạch, tiếp tục đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để phát triển đất nước.
Đặc biệt, trong những năm sau 1975, khi Sài Gòn đối mặt với tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng, Võ Văn Kiệt đã đưa ra quyết định táo bạo: thay vì tuân theo giá thu mua nhà nước, ông chọn phương án “phá rào” để thu mua gạo từ miền Tây, đảm bảo lương thực cho người dân Sài Gòn.
Quyết định này đã giúp thành phố vượt qua thời kỳ khó khăn và ổn định đời sống. Sau khi tình hình lương thực cải thiện, hoạt động thu mua này dừng lại vào năm 1982. Không chỉ vậy, trong giai đoạn 1978–1979, khi thành phố thiếu hụt nguyên liệu nhập khẩu, Võ Văn Kiệt tiếp tục tìm cách “xé rào” nhập khẩu nguyên liệu phục vụ sản xuất, bằng sáng kiến “hàng đổi hàng” với các thương nhân từ Hồng Kông và Singapore,
Sự nghiệp thủ tướng chính phủ Võ Văn Kiệt (1991–1997)
Trong nhiệm kỳ đầu tiên từ năm 1991 đến 1992, Võ Văn Kiệt được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, sau đó là Thủ tướng Chính phủ, và đưa ra nhiều quyết sách quan trọng nhằm thúc đẩy công cuộc Đổi Mới. Ông đã quyết định xây dựng đường dây 500 kV Bắc – Nam, dự án được khởi động vào năm 1991 để giải quyết tình trạng thiếu điện ở miền Nam, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế đất nước.
Công trình được hoàn thành vào năm 1994, giúp ông được biết đến với biệt danh “Thủ tướng điện.” Trong nhiệm kỳ thứ hai từ 1992 đến 1997, ông tiếp tục đưa ra nhiều chính sách kinh tế quan trọng, phát triển các dự án lớn như khai phá vùng Đồng Tháp Mười, các công trình thủy điện và đường dây tải điện.
Về chính sách đối ngoại, Võ Văn Kiệt đóng vai trò quan trọng trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Những nỗ lực của ông đã giúp Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và củng cố vị thế trên trường quốc tế.
Sau khi rời khỏi cương vị Thủ tướng Chính phủ vào tháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt vẫn tiếp tục cống hiến cho đất nước với vai trò Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với các đồng chí Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Ông giữ chức vụ này cho đến khi vị trí cố vấn Trung ương Đảng được bãi bỏ vào tháng 4 năm 2001.
Trong suốt giai đoạn làm cố vấn, Võ Văn Kiệt luôn đóng góp ý kiến và tư vấn cho Đảng và Chính phủ, đồng hành cùng những chính sách quan trọng của đất nước. Một trong những thư ký của ông trong thời gian này là Vũ Đức Đam, người sau này đảm nhiệm vai trò Phó Thủ tướng Chính phủ từ năm 2013.
Sau khi kết thúc vai trò cố vấn, Võ Văn Kiệt quyết định lui về sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh, nơi ông tiếp tục theo dõi và quan tâm đến các hoạt động phát triển của đất nước.
Võ Văn Kiệt, một trong những nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam, đã có hai cuộc hôn nhân trong cuộc đời.
Người vợ đầu tiên của ông là bà Trần Kim Anh, con gái thứ sáu của một gia đình điền chủ, kết hôn với Võ Văn Kiệt khi bà 17 tuổi và ông 27 tuổi. Họ có với nhau bốn người con: Phan Chí Dũng (sinh năm 1951), Phan Hiếu Dân (sinh năm 1955), Phan Thị Ánh Hồng (sinh năm 1958), và Phan Chí Tâm (sinh năm 1966).
Năm 1966, trong một cuộc càn quét tại chiến khu Củ Chi, quân đội Hoa Kỳ đã tấn công và bắn chìm tàu Thuận Phong, khiến bà Trần Kim Anh cùng hai con nhỏ của họ thiệt mạng. Võ Văn Kiệt từng bày tỏ nguyện vọng rằng khi ông qua đời, tro cốt của ông sẽ được rải xuống dòng sông nơi vợ và con ông đã mất.
Thực hiện theo tâm nguyện này, tro cốt tượng trưng của ông, được tạo từ di ảnh và các di vật cá nhân, đã được rải xuống sông Sài Gòn đoạn chảy qua Củ Chi. Con trai cả của ông, Phan Chí Dũng, cũng đã hy sinh trong một nhiệm vụ trinh sát tại Sóc Trăng vào ngày 29 tháng 4 năm 1972.
Người vợ thứ hai của Võ Văn Kiệt là Giáo sư, Tiến sĩ Hóa học Phan Lương Cầm, giảng viên tại Đại học Bách khoa Hà Nội. Bà Phan Lương Cầm từng vinh dự nhận Giải thưởng Kovalevskaia – giải thưởng danh giá dành cho các nhà khoa học nữ tại Việt Nam vào năm 1984.
Theo thông tin trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của Huy Đức, Võ Văn Kiệt còn có một người con riêng tên Phan Thanh Nam, sinh ngày 25 tháng 2 năm 1952 tại miền Bắc. Mẹ của Phan Thanh Nam là bà Hồ Thị Minh, một nhà báo nổi tiếng và từng giữ vai trò chủ bút đầu tiên của tờ “Phụ nữ Cứu quốc Nam Bộ”.
Bà Minh từng đại diện Việt Nam tham dự Hội nghị Femmes Francaises tại Pháp. Võ Văn Kiệt và bà Minh gặp nhau khi ông tham gia lớp học "Hoa Nam" tổ chức tại xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với sự tham gia của các giảng viên nổi tiếng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, và Nguyễn Chí Thanh.
Vào lúc 8 giờ 40 phút ngày 11 tháng 6 năm 2008 (giờ Singapore, tức 7 giờ 40 phút cùng ngày giờ Hà Nội), Võ Văn Kiệt qua đời tại Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore, nơi ông đang được điều trị. Theo hãng tin Reuters, nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của ông là do tuổi cao và biến chứng của viêm phổi cấp tính.
Trong khi đó, hãng tin AP cho rằng ông qua đời do tai biến mạch máu não. Thủ tướng Singapore, Lý Hiển Long, đã gửi lời chia buồn sâu sắc và hỗ trợ việc đưa thi hài của ông về Việt Nam vào tối cùng ngày để chuẩn bị cho lễ quốc tang.
Sau khi thông tin về sự ra đi của Võ Văn Kiệt được lan truyền trên các hãng tin quốc tế, nhiều lãnh đạo các nước đã gửi lời chia buồn. Báo chí Việt Nam chính thức đưa tin về việc ông qua đời vào tối ngày 12 tháng 6, cùng với thông báo của Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về việc tổ chức quốc tang trong 2 ngày.
Lễ viếng Võ Văn Kiệt được tổ chức vào ngày 14 tháng 6 tại Hà Nội, Hội trường Thống Nhất, và tại trụ sở Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Long – quê hương của ông. Trưởng ban lễ tang nhà nước, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh, đã chủ trì lễ truy điệu vào ngày 15 tháng 6.
Sau buổi lễ, linh cữu của ông được an táng tại nghĩa trang Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Lễ truy điệu và an táng đã được truyền hình trực tiếp trên các kênh VTV1, VTV9, VOV1 và HTV9, để người dân cả nước có thể theo dõi và tiễn đưa ông.
Bên cạnh Việt Nam, nhiều quốc gia khác cũng tổ chức quốc tang để tưởng nhớ Võ Văn Kiệt, bao gồm Thái Lan (5 ngày), Malaysia (4 ngày), Singapore (3 ngày), Pakistan (3 ngày), Tajikistan (2 ngày), Campuchia (2 ngày), Peru (1 ngày), và Bangladesh (1 ngày).
Vào tháng 12 năm 1997, Võ Văn Kiệt được trao tặng Huân chương Sao Vàng – huân chương cao quý nhất của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó, ông còn nhận được nhiều huân chương, huy chương khác và đặc biệt là huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, ghi nhận những cống hiến to lớn của ông cho sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nước.
Tên của Võ Văn Kiệt đã được vinh danh trên nhiều công trình quan trọng khắp cả nước. Vào ngày 22 tháng 2 năm 2009, con đường dài 23,6 km chạy từ ngã tư Bình Long, cắt Quốc lộ 1 và đi qua nhà máy lọc dầu Dung Quất đến cảng Dung Quất, Quảng Ngãi được đặt tên theo ông.
Ngày 29 tháng 4 năm 2011, Đại lộ Đông – Tây – một trong những tuyến đường hiện đại và quan trọng nhất của Thành phố Hồ Chí Minh – đã chính thức mang tên Đại lộ Võ Văn Kiệt. Tuyến đường này dài hơn 13,42 km, bắt đầu từ đoạn giao giữa đường Hàm Nghi và đường Tôn Đức Thắng, quận 1, kéo dài đến cầu vượt Quốc lộ 1 tại huyện Bình Chánh.
Dự án Đại lộ Đông – Tây có tổng chiều dài 21,89 km, đi qua 8 quận, huyện của thành phố, bao gồm hầm vượt sông Sài Gòn dài 1.490 m với tổng mức đầu tư 9.863 tỷ đồng.
Tại Cần Thơ, tuyến đường nối từ trung tâm thành phố đến Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ cũng được đặt tên Võ Văn Kiệt. Ở Đà Nẵng, tên ông được đặt cho con đường nối giữa đường Nguyễn Văn Linh và đường Võ Nguyên Giáp.
Ngày 8 tháng 11 năm 2015, tỉnh Trà Vinh đã tổ chức lễ công bố nghị quyết đặt tên Võ Văn Kiệt cho đoạn đường từ ngã ba Sóc Ruộng đến Quốc lộ 53. Tại Đồng Tháp, tên ông cũng được đặt cho đoạn đường dài 40 km, chạy từ thị trấn Thanh Bình đến xã Trường Xuân, xuyên qua Đồng Tháp Mười.
Cuộc đời Võ Văn Kiệt không chỉ gắn liền với những đóng góp to lớn cho cách mạng và đất nước, mà còn chứa đựng những câu chuyện đời tư đầy cảm xúc và ý nghĩa, thể hiện qua sự xây dựng lại cuộc sống sau những mất mát cùng người vợ thứ hai, Giáo sư Phan Lương Cầm – một nhân vật nổi bật trong giới khoa học Việt Nam.
Hy vọng rằng qua bài viết về tiểu sử Võ Văn Kiệt và sự nghiệp của nhà lãnh đạo tài ba Việt Nam, sẽ giúp bạn đọc có thể hiểu rõ hơn về những cống hiến to lớn của ông đối với đất nước. Từ những quyết sách táo bạo, tầm nhìn chiến lược đến sự gần gũi và tận tụy với nhân dân, Võ Văn Kiệt đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Việt Nam. Chúc bạn có thêm nhiều kiến thức bổ ích và lý thú!
Address: 10B Đường Số 2, Khu Phố 3, Phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Phone: 0934119383
E-Mail: contact@tinycollege.edu.vn