Phạm Văn Đồng, một trong những nhà lãnh đạo kiệt xuất của Việt Nam, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử cách mạng và phát triển đất nước. Với sự nghiệp chính trị lẫy lừng, ông đã góp phần không nhỏ vào việc định hình nền tảng độc lập và phát triển của Việt Nam hiện đại. Hãy cùng tinycollege.edu.vn khám phá tiểu sử Phạm Văn Đồng, tìm hiểu về cuộc đời và những đóng góp to lớn của vị Thủ tướng tài ba này qua bài viết dưới đây.
Phạm Văn Đồng sinh ngày 1 tháng 3 năm 1906, trong một gia đình trí thức tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ngay từ nhỏ, ông đã được thừa hưởng truyền thống văn hóa và yêu nước từ gia đình và quê hương. Ông luôn tích cực trau dồi kiến thức về lịch sử và văn hóa dân tộc, đồng thời nghiên cứu sâu rộng các giá trị văn học và triết học của nhân loại.
Phạm Văn Đồng sinh ngày 1 tháng 3 năm 1906, trong một gia đình trí thức tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ngay từ nhỏ, ông đã được thừa hưởng truyền thống văn hóa và yêu nước từ gia đình và quê hương. Ông luôn tích cực trau dồi kiến thức về lịch sử và văn hóa dân tộc, đồng thời nghiên cứu sâu rộng các giá trị văn học và triết học của nhân loại.
Phạm Văn Đồng theo học tại Trường Quốc học Huế, nơi ông sớm bộc lộ tài năng xuất sắc trong học tập, đặc biệt là tiếng Pháp, giúp ông tiếp cận với các tư tưởng văn học và triết học phương Tây, nhất là tư tưởng cách mạng của Pháp.
Năm 1925, khi phong trào bãi khóa của học sinh, sinh viên nổ ra nhằm tưởng nhớ Phan Châu Trinh, Phạm Văn Đồng đã tham gia và nhanh chóng trở thành một trong những nhân tố tích cực. Một năm sau đó, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc để tham dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và chính thức gia nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm 1929, ông được giao nhiệm vụ quan trọng tại Kỳ bộ Nam Kỳ và sau đó trở thành thành viên Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Trong thời gian này, ông đã tham dự Đại hội tổ chức tại Hồng Kông. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1929, Phạm Văn Đồng bị thực dân Pháp bắt giữ và kết án 10 năm tù, bị đày ra Côn Đảo.
Năm 1925, khi phong trào bãi khóa của học sinh, sinh viên nổ ra nhằm tưởng nhớ Phan Châu Trinh, Phạm Văn Đồng đã tham gia và nhanh chóng trở thành một trong những nhân tố tích cực. Một năm sau đó, ông sang Quảng Châu, Trung Quốc để tham dự lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh tổ chức và chính thức gia nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Năm 1929, ông được giao nhiệm vụ quan trọng tại Kỳ bộ Nam Kỳ và sau đó trở thành thành viên Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Trong thời gian này, ông đã tham dự Đại hội tổ chức tại Hồng Kông. Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 1929, Phạm Văn Đồng bị thực dân Pháp bắt giữ và kết án 10 năm tù, bị đày ra Côn Đảo.
Sau khi ra tù năm 1936, Phạm Văn Đồng tiếp tục con đường cách mạng, hoạt động tại Hà Nội. Đến năm 1940, ông cùng Võ Nguyên Giáp bí mật sang Trung Quốc và gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tại đây, ông được Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ quay về nước để xây dựng căn cứ địa cách mạng tại vùng biên giới Việt – Trung, chuẩn bị cho phong trào cách mạng lớn hơn.
Năm 1945, tại Quốc dân Đại hội Tân Trào, Phạm Văn Đồng được bầu vào Ủy ban Thường trực của Ủy ban Dân tộc giải phóng, bao gồm 5 thành viên. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị và tiến hành thành công Cách mạng Tháng Tám, mở ra trang sử mới cho đất nước Việt Nam.
Trước khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức thành lập, vào ngày 16 tháng 8 năm 1945, Phạm Văn Đồng được giao nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời. Tuy nhiên, dấu ấn lớn nhất trong sự nghiệp của ông là trong lĩnh vực ngoại giao. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông được bầu làm Phó Trưởng ban Thường vụ Quốc hội khóa I tại Hà Nội.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1946, Phạm Văn Đồng đảm nhận vai trò Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Fontainebleau tại Pháp, thay thế Nguyễn Tường Tam. Mục tiêu của ông là đàm phán để tìm kiếm giải pháp độc lập cho Đông Dương. Tuy nhiên, hội nghị không đạt được kết quả như mong muốn do phía Pháp không cam kết rõ ràng về việc tổ chức trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ.
Trước khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức thành lập, vào ngày 16 tháng 8 năm 1945, Phạm Văn Đồng được giao nhiệm vụ Bộ trưởng Bộ Tài chính trong Chính phủ lâm thời. Tuy nhiên, dấu ấn lớn nhất trong sự nghiệp của ông là trong lĩnh vực ngoại giao. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, ông được bầu làm Phó Trưởng ban Thường vụ Quốc hội khóa I tại Hà Nội.
Vào ngày 31 tháng 5 năm 1946, Phạm Văn Đồng đảm nhận vai trò Trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Fontainebleau tại Pháp, thay thế Nguyễn Tường Tam. Mục tiêu của ông là đàm phán để tìm kiếm giải pháp độc lập cho Đông Dương. Tuy nhiên, hội nghị không đạt được kết quả như mong muốn do phía Pháp không cam kết rõ ràng về việc tổ chức trưng cầu dân ý tại Nam Kỳ.
Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất bùng nổ, Phạm Văn Đồng được cử làm Đặc phái viên của Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, và đến năm 1949, ông trở thành Ủy viên Trung ương chính thức. Từ tháng 7 năm 1949, ông được bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng duy nhất.
Tại Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ hai vào năm 1951, Phạm Văn Đồng trở thành Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Năm 1954, ông đóng vai trò Trưởng phái đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Genève về Đông Dương, nơi thỏa thuận chấm dứt chiến tranh và công nhận độc lập cho Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Sau Hiệp định Genève, Phạm Văn Đồng tiếp tục đảm nhiệm vai trò Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào tháng 9 năm 1954 và Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, góp phần lớn vào việc xây dựng chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ ngày 20 tháng 9 năm 1955, Phạm Văn Đồng chính thức trở thành Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp tục giữ cương vị này khi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được thành lập vào năm 1976, cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1987. Trong thời gian này, ông cũng đảm nhận vai trò Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và là đại biểu Quốc hội liên tục từ năm 1946 đến năm 1987.
Sau Hiệp định Genève, Phạm Văn Đồng tiếp tục đảm nhiệm vai trò Bộ trưởng Bộ Ngoại giao vào tháng 9 năm 1954 và Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng, góp phần lớn vào việc xây dựng chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Từ ngày 20 tháng 9 năm 1955, Phạm Văn Đồng chính thức trở thành Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tiếp tục giữ cương vị này khi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được thành lập vào năm 1976, cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1987. Trong thời gian này, ông cũng đảm nhận vai trò Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và là đại biểu Quốc hội liên tục từ năm 1946 đến năm 1987.
Trong suốt cuộc Chiến tranh chống Mỹ, Phạm Văn Đồng là đại diện chính thức của miền Bắc Việt Nam, ông không ngừng nỗ lực duy trì các mối quan hệ ngoại giao và đóng vai trò quan trọng trong việc đàm phán hòa bình, đặc biệt là với các chính phủ nước ngoài và các nhà báo quốc tế. Ông cũng duy trì mối quan hệ chặt chẽ với chính phủ Trung Quốc, quốc gia đã cung cấp nhiều hỗ trợ cho cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam.
Sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, Phạm Văn Đồng tiếp tục giữ vai trò Thủ tướng và tham gia vào nhiều hoạt động nhằm đổi mới nền kinh tế và xã hội của Việt Nam. Ông đã tích cực chỉ đạo cải cách nông nghiệp, khuyến khích mô hình “khoán hộ” và cải tiến sản xuất công nghiệp. Các chỉ đạo này đã góp phần quan trọng trong việc từng bước loại bỏ cơ chế quan liêu bao cấp và mở đường cho công cuộc đổi mới sau này.
Vào tháng 12 năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Phạm Văn Đồng cùng nhiều lãnh đạo cao cấp khác tuyên bố từ chức và không tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI. Ông sau đó được bổ nhiệm vào Hội đồng Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1986 đến 1997, Phạm Văn Đồng giữ vai trò Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cùng các lãnh đạo khác như Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt là tại cuộc gặp không chính thức với lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô vào năm 1990.
Vào tháng 12 năm 1986, sau Đại hội Đảng lần thứ VI, Phạm Văn Đồng cùng nhiều lãnh đạo cao cấp khác tuyên bố từ chức và không tái cử vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI. Ông sau đó được bổ nhiệm vào Hội đồng Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1986 đến 1997, Phạm Văn Đồng giữ vai trò Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cùng các lãnh đạo khác như Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, đặc biệt là tại cuộc gặp không chính thức với lãnh đạo Trung Quốc tại Thành Đô vào năm 1990.
Phạm Văn Đồng cũng được tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý, trong đó có Huân chương Sao Vàng – danh hiệu cao nhất của Nhà nước Việt Nam, cùng với nhiều huân chương từ các quốc gia khác. Mặc dù tuổi cao và sức khỏe suy yếu, ông vẫn tiếp tục đóng góp ý kiến và viết nhiều bài quan trọng cho Đảng và đất nước cho đến cuối đời.
Phạm Văn Đồng qua đời vào lúc 23 giờ 10 phút ngày 29 tháng 4 năm 2000 tại Hà Nội, thọ 94 tuổi. Chính phủ Việt Nam đã tổ chức lễ quốc tang để tôn vinh những cống hiến to lớn của ông đối với đất nước. Lễ viếng chính thức được diễn ra trong hai ngày, từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 5 năm 2000, tại Nhà tang lễ quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.
Lễ truy điệu được tổ chức vào 8 giờ sáng ngày 6 tháng 5 năm 2000, cũng tại Nhà tang lễ quốc gia. Sau buổi lễ, linh cữu của ông Phạm Văn Đồng được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch – nơi yên nghỉ của nhiều vị lãnh đạo cấp cao của đất nước. Buổi lễ truy điệu và an táng được truyền hình trực tiếp trên các kênh của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân cả nước.
Lễ truy điệu được tổ chức vào 8 giờ sáng ngày 6 tháng 5 năm 2000, cũng tại Nhà tang lễ quốc gia. Sau buổi lễ, linh cữu của ông Phạm Văn Đồng được an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch – nơi yên nghỉ của nhiều vị lãnh đạo cấp cao của đất nước. Buổi lễ truy điệu và an táng được truyền hình trực tiếp trên các kênh của Đài Truyền hình Việt Nam (VTV), thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân cả nước.
Phạm Văn Đồng sinh ra trong gia đình có mẹ là cụ Nguyễn Thị Tuân. Ông kết hôn với bà Phạm Thị Cúc, người kém ông 16 tuổi và sinh năm 1922. Họ có một người con trai duy nhất là Phạm Sơn Dương, sinh năm 1951. Hiện tại, Phạm Sơn Dương giữ chức Thiếu tướng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và là Phó Giám đốc Viện Khoa học và Công nghệ Quân sự.
Phạm Văn Đồng và bà Phạm Thị Cúc kết hôn vào tháng 10 năm 1946, khi đó ông đã nhận nhiệm vụ tại Liên khu V. Tuy nhiên, cuộc sống của hai vợ chồng gặp nhiều khó khăn do công tác cách biệt. Sau khi cưới, bà Cúc vào Nam sống cùng chồng, nhưng khi tới nơi, ông lại nhận lệnh trở ra Bắc.
Thời gian sau, bà Cúc mắc bệnh "nửa quên nửa nhớ" kéo dài nhiều năm. Mặc dù Phạm Văn Đồng đã đưa bà đi điều trị tại Trung Quốc và Liên Xô, nhưng tình trạng sức khỏe của bà không được cải thiện. Bà Phạm Thị Cúc qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 2018, thọ 96 tuổi.
Phạm Văn Đồng và bà Phạm Thị Cúc kết hôn vào tháng 10 năm 1946, khi đó ông đã nhận nhiệm vụ tại Liên khu V. Tuy nhiên, cuộc sống của hai vợ chồng gặp nhiều khó khăn do công tác cách biệt. Sau khi cưới, bà Cúc vào Nam sống cùng chồng, nhưng khi tới nơi, ông lại nhận lệnh trở ra Bắc.
Thời gian sau, bà Cúc mắc bệnh "nửa quên nửa nhớ" kéo dài nhiều năm. Mặc dù Phạm Văn Đồng đã đưa bà đi điều trị tại Trung Quốc và Liên Xô, nhưng tình trạng sức khỏe của bà không được cải thiện. Bà Phạm Thị Cúc qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 2018, thọ 96 tuổi.
Phạm Sơn Dương có vợ là Minh Châu và hai người con: một trai là Quốc Hoa và một gái là Quốc Hương. Tên của hai người cháu được chính Phạm Văn Đồng đặt với ý nghĩa sâu sắc: "hoa" và "hương" tượng trưng cho sự tinh hoa của đất nước.
Tên của Phạm Văn Đồng đã được vinh danh trên nhiều tuyến đường và công trình quan trọng trên khắp cả nước. Tại thủ đô Hà Nội, con đường mang tên Phạm Văn Đồng là một tuyến đường huyết mạch, nối từ ngã tư Xuân Thủy – Phạm Hùng – Hồ Tùng Mậu đến cầu Thăng Long, mở đầu cho tuyến giao thông dẫn từ trung tâm thành phố tới sân bay quốc tế Nội Bài.
Ngoài Hà Nội, tên của Phạm Văn Đồng cũng được đặt cho nhiều tuyến đường lớn tại các thành phố như Đà Nẵng, Đồng Hới, Nha Trang, Hải Phòng, và Thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện sự tri ân đối với những đóng góp to lớn của ông cho đất nước.
Ngoài Hà Nội, tên của Phạm Văn Đồng cũng được đặt cho nhiều tuyến đường lớn tại các thành phố như Đà Nẵng, Đồng Hới, Nha Trang, Hải Phòng, và Thành phố Hồ Chí Minh, thể hiện sự tri ân đối với những đóng góp to lớn của ông cho đất nước.
Tại Đà Nẵng, ngoài tuyến đường, còn có một bãi biển mang tên Phạm Văn Đồng, trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn. Tại quê hương Quảng Ngãi, trường Đại học Phạm Văn Đồng được thành lập trên cơ sở nâng cấp từ Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi và Trường Cao đẳng Cộng đồng Quảng Ngãi, thể hiện sự ghi nhận đối với những đóng góp trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của ông. Những địa danh này không chỉ tôn vinh sự nghiệp của Phạm Văn Đồng mà còn là biểu tượng cho sự phát triển và tiến bộ của đất nước.